Có thể bạn đã biết đến phương pháp nuôi cá lồng bè. Đây là phương pháp vô cùng phổ biến trong việc thả nuôi cá tra, cá basa. Đây là phương pháp đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Tuy nhiên do sự phát triển mạnh của mô hình này mà mật độ nuôi cá rất cao. Điều đó khiến cho môi trường bị ô nhiễm hơn. Khiến cá dễ bị bệnh, bộc phát và lây lan gây thiệt hại cho người nuôi. Theo nhiều thống kê của hiệp hội cá tra, cá basa Việt Nam hằng năm lượng cá hao hụt do chết bệnh chiếm khoảng 15%. Có những khi lên tới 30-40% tại các lồng nuôi.
Đâu là nguyên nhân gây bệnh cho cá tra, cá basa nuôi bè
Bệnh không truyền nhiễm ở cá
Thường là bệnh do môi trường gây ra. Cá basa rất nhạy cảm với những biến đổi của môi trường. Do đó vào các tháng 1 – 2, khi nhiệt độ hạ thấp đột ngột, làm cho cá kém ăn hoặc bỏ ăn. Từ đó dẫn đến cá suy dinh dưỡng và dễ nhiễm bệnh gây chết ở các tháng sau đó. Vào tháng 4-5, nhiệt độ lên cao (có ngày tới 31 – 32 độ C) cũng dễ làm cho cá nhiễm bệnh. Đặc biệt xuất huyết đường ruột gây chết hàng loạt. Cá basa dễ bị chết ngạt do thiếu oxy ở những thời gian nước đứng (đặc biệt từ giữa đến cuối mùa khô). Khi thiếu oxy, cá thường bơi nhào lên, làm cho cá dễ bị lộn ruột và chết.
Cá có thể chết do nước có nhiều khí độc như H2S, CH4, NH3 … hoặc CO2 quá cao. Nước nhiễm phèn, nước thải công nghiệp có độc tố, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ … – Ngoài ra, thức ăn và vấn đề cho ăn cũng ảnh hưởng đến sức khỏe của cá. Nếu nguyên liệu chế biến thức ăn để quá lâu (như bột cá để lâu quá sẽ bị hư, mốc và nấm độc phát triển, cá tạp bị ươn thối, cám gạo bị mốc…) sẽ có nguy cơ gây độc cho cá. Thức ăn không đủ hàm lượng đạm sẽ làm tăng trưởng chậm và dễ nhiễm bệnh. Thiếu vitamin sẽ làm sức tăng trưởng giảm, cá bị co giật. Giảm sút về chất lượng và sản lượng.
Các bệnh ở cá có truyền nhiễm
Đây là nguyên nhân bệnh gồm có nhiều tác nhân gây bệnh cho cá như vi khuẩn, virus và ký sinh trùng. Bệnh cá bè hầu như xuất hiện quanh năm. Tuy nhiên cũng có một số bệnh xuất hiện theo mùa rõ rệt như bệnh viêm ruột gây chết cá basa vào các tháng đầu năm. Bệnh đốm đỏ, đốm trắng xuất hiện nhiều vào các thời điểm giao mùa (tháng 2-3 và 5-6). Bệnh nhiễm giun tròn xuất hiện ở tất cả các tháng trong năm. Với mỗi thời điểm bạn cần có những lưu ý để chăm sóc đàn cá của mình.
Các cách phòng và trị một số bệnh phổ biến
Bệnh đốm đỏ ở cá
Bệnh sẽ thường xuất hiện vào lúc giao mùa. Nhiễm trên cả cá tra, basa và nhiều loài cá khác. Bệnh gây do một số loài vi khuẩn như Aeromonas hydrophila và Pseudomonas fluoresen. Cá bị bệnh thường bơi lờ đờ trên mặt nước, trên thân xuất hiện điểm xuất huyết nhỏ li ti, nếu bệnh nặng thì các gốc vây cũng xuất huyết. Bụng cá trương to, thành ruột xuất huyết, cá ít ăn hoặc bỏ ăn. Các tia vây lưng, hậu môn và vây đuôi bị rách xơ xác.
Cách phòng trị: Nếu cá còn ăn được thức ăn thì trộn thuốc vào thức ăn như sau: Nitrofurazon 2 gam (hoặc Oxytetracyclin) 2 gam + Vitamin C, 3 gam/100kg cá. Cho cá ăn liên tục 5-7 ngày, lưu ý thức ăn trộn thuốc nên giảm đi một nửa. Để hạn chế lượng thức ăn thừa.
Bệnh trắng da (hay bệnh mất nhớt)
Bệnh trắng da sẽ xuất hiện khi cá bị xây xát hoặc bị sốc do đánh bắt, vận chuyển. Cũng có thể do nhiệt độ môi trường nước thay đổi đột ngột. Tác nhân gây bệnh là do vi khuẩn Flexibacter columnaris. Cá nhiễm bệnh thường bỏ ăn, yếu dần, gốc vây lưng xuất hiện màu trắng, lan dần đến cuống đuôi và toàn thân. Bệnh nặng xuất hiện các vết loét ăn sâu vào cơ. Vây cá rách xơ xác yếu ớt rồi chìm xuống đáy và chết.
Cách phòng trị: Trộn vào thức ăn Oxytetracycline 5 gam/100kg cá bệnh, hoặc Sulfadimezin 5 gam + Oxytetracycline 2 gam/100kg cá. Cho cá ăn liên tục 5-7 ngày. Để đảm bảo lượng thuốc được nạp vào.
Bệnh xuất huyết đường ruột
Cá hay bị xuất huyết đường ruột vào các tháng mùa khô. Khi nhiệt độ cao gây cho cá bị xuất huyết nội tạng (chủ yếu ở cá basa) và gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi cá basa. Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Staphylococcus sp. Cá bị bệnh thì bụng bị trương to. Hậu môn lồi, sưng đỏ, vây bụng xuất huyết, cá biếng ăn, bơi tách đàn.
Khi giải phẩu nội tạng thấy đường ruột bị xuất huyết, cơ xoang bụng cũng bị xuất huyết, đôi khi mỡ cũng có màu hồng. Để phòng bệnh, nhiều chủ bè đã dùng cây cỏ mực băm nhỏ, nấu chung với thức ăn, đã phòng bệnh cho cá vào đầu mùa khô rất tốt.
Lượng dùng: 1kg cỏ mực + 0,5g muối + 70kg cám. Cứ cách một tuần cho ăn một lần. Cách trị bệnh Dùng Sulfathiazone 6 gam + Thiromin 0,5gam/100kg cá bệnh Hoặc Sulfaguanin 5-10gam + 70kg cám/100kg cá bệnh. Cho ăn đến ngày thứ 3 thì giảm đi 1/2 liều, đến ngày thứ 5 cá sẽ hết bệnh. Đây là một phương pháp vô cùng hữu hiệu.
Bệnh do ký sinh trùng
Bệnh do giun tròn gây ra : do tác nhân thuộc giống Philometra ký sinh trong ruột cá. Chúng không gây thành dịch lớn, nhưng ảnh hưởng đến sức tăng trưởng của cá, phá hoại niêm mạc ruột và gây viêm ruột, đôi khi tắc ruột, thủng ruột hoặc tắt ống dẫn mật. Cách xổ giun: dùng Dipterex 8-10gam/100kg cá bệnh, trộn vào thức ăn.
Bệnh do sán lá 16 móc (Dactylogyrus): là loài sán có kích thước cơ thể dài 0,5-1mm, thường ký sinh trên mang cá tra và basa. Chúng bám chặt vào mang và niêm mạc của mang để hút máu, gây viêm loét mang cá. Cách phòng trị: Treo giỏ thuốc Sulfat đồng (CuSO4) 5-7ppm (1gam trên mét khối nước) hoặc Dipterex 1–5ppm ở đầu bè. Loại thuốc này sẽ giúp tiêu diệt loại sán trên.
Xem thêm các bài viết khác tại đây.
Nguồn: Vietlinh.vn