
Hiện nay nghề nuôi cá lồng bè trên sông tại một số tỉnh miền Bắc đã phát triển rất mạnh. Ngành nghề này đã góp phần phát triển kinh tế địa phương. Các giống cá được nuôi chủ yếu là cá lăng đen, cá rô phi, cá điêu hồng, cá chiên, cá ngạnh…, Ở nhiều địa phương, địa điểm nuôi cá lồng bè còn trở thành một nơi du lịch hút khách.
Không thể nói hết được những lợi ích mà mô hình này mang lại cho người thực hiện. Nhất là về lợi ích kinh tế, nhiều gia đình đã thoát nghèo nhờ phương pháp này. Cúng chính vì vậy mà mật độ lồng nuôi ngày càng tăng. Số lượng nuôi trong một lồng cũng theo đó mà tăng theo. Tất cả những điều này đã khiến vùng nuôi quá tải. Cộng thêm việc biến động thời tiết đã gây ra rất nhiều bệnh cho cá. Chúng để lại những hậu quả lớn và gây ra những thiệt hại không nhỏ cho người nuôi. Tất cả các dịch bệnh xảy ra đều ghi nhận ảnh hưởng lớn đến sản lượng và năng suất cá nuôi sau thu hoạch.
Nhằm giúp cho người nuôi cá hạn chế được phần nào thiệt hại do dịch bệnh. Trong bài viết này chúng tôi xin giới thiệu một số bệnh thường gặp trên cá nuôi lồng tại một số tỉnh phía Bắc. Nắm được các thông tin này sẽ giúp bà con phòng chống bệnh được tốt hơn cho cá nuôi của mình.
Bệnh do vi rút gây bệnh trên cá nuôi lồng bè và biện pháp phòng bệnh
Bệnh do cá nhiễm vi rút KHV (Koi Herpesvirus)
– Tác nhân gây bệnh:Do vi rút thuộc họ Herpesviridae
– Đối tượng chính nhiễm bệnh: Cá chép và cá chép cảnh

– Dấu hiệu bệnh:
Đầu tiên có thể là một vài tổn thường trên mang và tỷ lệ chết cao. Một số trường hợp vi khuẩn và KST là tác nhân thứ hai có thể làm cho virus nhiễm đầu tiên nguy hiểm hơn. Trạng thái cá nhiễm bệnh thường gần tầng mặt, bơi lờ đờ và có thể bị sốc do ngạt thở và bơi không định hướng.
Dấu hiệu bệnh ngoài của bệnh KHV có thể thấy mang có vết chấm lốm đốm màu đỏ và màu trắng (giống như bệnh vi khuẩn dạng sợi), mang chảy máu, mắt trũng, da có đám bạc màu hoặc phồng rộp. Lấy nhớt mang kiểm tra dưới kính hiển vi thường gặp số lượng lớn vi khuẩn và KST khác nhau.
Dấu hiệu bên trong của bệnh KHV không có gì đặc biệt, nhưng chúng có thể là các cơ quan bắm chặt vào xoang cơ thể và xuất hiện các chấm lốm đốm
– Mùa vụ xuất hiện bệnh: Cá thường bị bệnh vào mùa xuân khi nhiệt độ nước từ <25oC, bệnh thường lây từ cá sang cá.
– Phương pháp chẩn đoán: Kỹ thuật PCR
Bệnh do virus SCV (Spring Viremia of Carp)
– Tác nhân gây bệnh: Do vi rút thuộc họ họ Rhabdovirus carpio
– Đối tượng chính nhiễm bệnh:Cá chép và họ cá chép
– Dấu hiệu bệnh: Cá có thể bị nhiễm bệnh ở mọi giai đoạn phát triển. Khi bị bệnh, xuất hiện 1 trong các dấu hiệu:
+ Da cá thường có màu nhợt nhạt hoặc có màu đỏ, xuất huyết trên da và các gốc vây.
+ Mắt lồi, mang nhợt nhạt, thối mang hoặc các tia mang kết dính lại với nhau có màu đỏ không tự nhiên.
+ Bụng chướng to, bóng hơi bị teo một ngăn.

– Mùa vụ xuất hiện bệnh: Sự biến động của nhiệt độ, đặc biệt vào lúc giao mùa thường xảy ra ở cuối mùa đông đầu mùa xuân khi nhiệt độ thấp dưới 18oC
– Phương pháp chẩn đoán: Kỹ thuật PCR
Cá trắm cỏ nuôi lồng nhiễm vi rút
– Tác nhân gây bệnh:do Reovirus
– Đối tượng chính nhiễm bệnh:cá trắm cỏ và cá trắm đen
– Dấu hiệu bệnh lý:
+ Dấu hiệu bên ngoài: Da cá màu tối sẫm, cá nổi lờ đờ trên tầng mặt. Khi bệnh nặng cá có biểu hiện mắt lồi, mang nhợt nhạt, nắp mang và vây xuất huyết. Tỷ lệ cá chết cao từ 80-100% sau 2-3 tuần cá trong ao xuất hiện bệnh. Trong mùa dịch cá giống thường xuất hiện sớm hơn cá thịt. Với vây đuôi chuyển màu đen, bề ngoài thân màu tối đen. Hai bên cơ lưng có thể xuất hiện 2 dải sọc màu trắng.

+ Dấu hiệu bên trong: Bóc da cá bệnh nhìn thấy các đốm hoặc đám cơ đỏ xuất huyết, bệnh nặng, cơ toàn thân xuất huyết đỏ tươi, đây là dấu hiệu đặc trưng thường thấy của bệnh. Giải phẫu cơ quan nội tạng nhận thấy: ruột xuất huyết tương đối rõ ràng, một phần ruột hoặc toàn bộ xuất huyết màu đỏ thẫm, thành ruột còn chắc chắn, không hoại tử.
– Mùa vụ xuất hiện bệnh:Xuất hiện quanh năm nhưng xuất hiện nhiều nhất ở các tháng giao mùa giữa mùa xuân và mùa hè (tháng 3 – tháng 6), giữa mùa hè và mùa đông (từ tháng 8 – tháng 10).
– Phương pháp chẩn đoán:Kỹ thuật PCR, nuôi cấy tế bào.
Bệnh vi rút trên cá rô phi
– Tác nhân gây bệnh: Tilapia lake virus (TiLV), vi rút thuộc họ Orthomyxoviridae. Vi rút được miêu tả đầu tiên bởi Eyngor et al. (2014);
– Đối tượng nhiễm bệnh:Cá rô phi

– Dấu hiệu bệnh:
TiLV ảnh hưởng chủ yếu lên cá rô phi giai đoạn giống, tỷ lệ chết của cá rô phi đỏ giai đoạn giống lên đến 90% trong vòng một tháng sau khi thả lồng. Trong khi đó tỷ lệ chết chỉ đạt 9% đối với cá rô phi vằn (O. niloticus) có kích thước từ trung bình đến lớn. Cá mắc bệnh do TiLV gây ra có biểu hiện giảm ăn, màu sắc cơ thể biến đổi (sẫm màu), thay đổi tập tính bơi lội như tập trung ở trên bề mặt, bơi lờ đờ và bơi tách đàn. Ở giai đoạn nhiễm bệnh nặng, trên thân cá xuất hiện các vết lở loét từ dạng điểm đến mảng, mang tái nhợt, mắt bị teo lại hoặc lồi ra, có hiện tượng đục thủy tinh thể, vẩy dựng, bong tróc; đuôi bị ăn mòn.
– Mùa vụ xuất hiện bệnh:Xuất hiện quanh năm.
– Phương pháp chẩn đoán: Kỹ thuật PCR, mô bệnh học, nuôi cấy tế bào, lai tại chỗ.
Một số phòng bệnh do vi rút trên cá nuôi lồng, bè
Đối với bệnh do vi rút, cần áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp như:
– Sau mỗi vụ nuôi kéo lồng lên bờ vệ sinh lồng bằng cách quét vôi lên khung lồng, lồng lưới được ngâm trong nước vôi sau đó giặt sạch phơi khô.
– Cá giống thả vào lồng nuôi cần phải kiểm tra đầu vào, để loại cá nhiễm mầm bệnh vi rút.
– Trong quá trình nuôi thường xuyên treo túi vôi hoặc viên TCCA hoặc BKD để khử trùng môi trường nước và tiêu diệt mầm bệnh.
– Định kỳ hàng tháng cho cá ăn Vitamin C hoặc bột tỏi để phòng bệnh và tăng sức đề kháng cho cá với liều lượng theo hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao bì sản phẩm.
– Đối với cá bị bệnh chết cần phải được vớt lên nấu chín, hoặc tiêu hủy chôn với 1% vôi bột, không được vớt cá chết bỏ ra sông, suối dễ lây lan từ vùng nuôi này sang vùng nuôi khác.
Nguồn: Vietlinh.vn