Trồng ngô sinh khối hẳn không còn quá xa lạ đối với các khu vực làm nông nghiệp. Đặc biệt ngô sinh khối lại được canh tác phổ biến vào vụ mùa đông để có thể thu hoạch vào mùa xuân có điều kiện thời tiết thuận lợi. Khác với loại ngô bình thường; trồng ngô sinh khối đem lại cho bà con giá trị kinh tế cao; và có chất dinh dưỡng cao cho đàn vật nuôi. Để có thể trồng ngô sinh khối phát triển tốt và đem lại hiệu suất cao thì không phải điều dễ dàng; dưới đây là một số lưu ý giúp bà con có thêm kinh nghiệm để trồng ngô sinh khối phát triển tốt.
Đặc điểm ngô sinh khối
Cũng giống như các loại khô bình thường khác; ngô sinh khối được thu hoạch khi bắp ngô chín sáp; để làm thức ăn cho gia súc ăn cỏ. Thay vì thu hoạch để lấy hạt lúc bắp ngô đã chín hoàn toàn; cây ngô thu hoạch làm thức ăn cho gia súc ở giai đoạn bắp ngô chín sáp sẽ đảm bảo độ mềm; giàu dinh dưỡng và sự ngon miệng cho vật nuôi.
Ngô sinh khối được coi là một loại lương thực ngắn ngày; cây phát triển nhanh; khỏe mạnh trong môi trường nhiệt độ ấm. Toàn bộ cây ngô (thân, lá, bắp) thường được băm/xay nhỏ để cho gia súc ăn trực tiếp; hoặc chế biến sâu hơn thành các thức ăn cho gia súc như ủ chua; viên nén hoàn chỉnh cho gia súc ăn cỏ…
Ngô sinh khối có đặc điểm thân to; bộ rễ chân kiềng phát triển; có khả năng chống đổ. Cây được trồng lấy thân; lá, bắp non làm thức ăn thô xanh cho gia súc. Thời gian sinh trưởng của ngô sinh khối ngắn hơn ngô lấy hạt; từ khi trồng đến khi thu hoạch 60-70 ngày. Mặc dù thời gian sinh trưởng ngắn nhưng năng suất của ngô sinh khối không hề thấp với sản lượng trung bình từ 45-60 tấn/ha.
Thời điểm trồng ngô sinh khối
Ngô sinh khối có thể phát triển vào tất cả các mùa trong năm; tùy thuộc vào từng địa phương mà thời vụ sẽ khác nhau. Ở một số vùng có điều kiện thuận lợi (đất bằng, chủ động tưới,..); thì thu hoạch xong vụ này là có thể trồng vụ khác. Còn ở những khu vực trồng xen canh thì có thể trồng vào thời điểm mà thời vụ rảnh của bà con nông dân.
Lựa chọn hạt giống
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại giống ngô sinh khối; cho năng suất cao trung bình đạt 50 tấn/ha; khả năng chống chịu bệnh tốt. Bà con có thể đến các cửa hàng bán giống uy tín tại địa phương để chọn mua giống. Hiện nay các loại ngô sinh khối có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt; ít nhiễm sâu bệnh; năng suất sinh khối cao; có khả năng trồng được mật độ cao; chịu hạn như: VN172, ĐH17-5, LCH-9, NK7328, PSC747…
Kỹ thuật trồng và chăm sóc
Chuẩn bị đất gieo trồng
Đất trước khi trồng ngô sinh khối cần được chuẩn bị và làm sạch thật kỹ; loại bỏ cỏ dại, cày rạch hàng; lên luống hoặc không tùy điều kiện đất và thời vụ. Ở vùng trung du, miền núi; hoặc trồng ngô vụ đông trên chân đất 2 vụ lúa; nên áp dụng kỹ thuật làm đất tối thiểu. Nên gieo hạt bằng máy gieo với chức năng rạch hàng; rải phân, gieo; và lấp hạt hoặc máy gieo đẩy tay. Đất vụ đông nên gieo hạt ủ nứt mầm; hoặc cũng có thể làm bầu để đảm bảo khoảng cách tốt và tiết kiệm thời gian gieo trồng cho người nông dân.
Xử lý hạt giống
Để cây giống phát triển tốt; trước khi tiến hành gieo hạt bà con cần xử lý hạt giống ngô trước; ngâm hạt giống ngô trong nước lạnh 2-3 giờ. Vớt ra để dáo nước sau đó ủ hạt giống vào khăn ấm 20-24 giờ; để cho tỷ lệ nảy mầm cao và đem ra gieo trồng như các loại giống ngô thường khác. Lượng giống cho 1 ha: 27 – 30 kg; mật độ thích hợp: 7,7 – 8,3 vạn cây/ha; khoảng cách gieo: 60 – 65 cm x 20 cm/cây.
Bón phân cho ngô sinh khối
Lượng phân bón thích hợp cho ngô sinh khối là 8 – 10 tấn/ha phân chuồng; hoặc 2500 kg phân hữu cơ vi sinh. Bón lót toàn bộ trước khi gieo hạt. Phân đạm urê: 340 – 350 kg; lân supe: 600 – 650 kg; kali chlorua: 165 – 170 kg; bón lần 1 khi ngô 5 – 7 lá (toàn bộ lân + 1/3 lượng đạm và ½ lượng kali); bón lần 2 khi ngô 9 – 10 lá (1/3 lượng đạm + 1/2 lượng kali); lần bón thúc thứ ba là trước 10 ngày sau khi trổ bông để cây có đủ chất dinh dưỡng cho bắp có chất lượng tốt. Trường hợp sử dụng phân bón tổng hợp NPK, có thể chọn loại phân và lượng bón để đạt mức bón tương đương.
Chăm sóc và thu hoạch
Cần phải bổ sung chất dinh dưỡng phù hợp để tạo lực cho cây; Phòng trừ cỏ dại và sâu bệnh sớm; đặc biệt là sâu đục thân, bệnh khô vằn và đốm lá. Tưới nước đảm bảo đủ ẩm; đối với vùng trung du; miền núi cần bố trí thời vụ để tránh hạn. Các giai đoạn quan trọng ảnh hưởng đến sản lượng của ngô đó là trước; trong và sau khi ngô trổ bông; tung phấn, phun râu.
Thời gian phù hợp nhất để có thể cắt cây ngô xanh để ủ chua; là khi 50% số bắp trên cây ở giai đoạn chín sáp. Thu hoạch toàn bộ thân cây bao gồm cả bắp; cắt thành các lát từ 3 – 5 cm.
Tỷ lệ ủ chua thân cây
Thân cây ngô sau khi thu hoạch bắp có thể tiến hành ủ chua và lên men ngay lập tức. Tỷ lệ để ủ chua thân cây đó là 100kg cây ngô tươi (thân, lá, bắp xanh) đã phơi héo; 5 lít (hoặc 2 kg) urê; 0,5kg muối ăn.
Nguyên liệu thay thế
Có thể thay thế rỉ mật (hoặc urê) bằng một số loại men vi sinh sau:
– Vi khuẩn lên men hỗn hợp (Homo Fermentative Lactic Acid Bacteria): Liều dùng 0,25 kg dạng hạt hoặc 1 lít dạng lỏng/tấn ngô nguyên liệu.
– BIO-PT1, NN1 (men vi sinh hoạt tính): 1 kg chế phẩm BIO-PT1 (hoặc NN1); 6 kg cám gạo (bột ngô nghiền); 1,5 kg muối ăn sử dụng cho 600 – 1.000 kg nguyên liệu ngô sinh khối.
– Có thể sử dụng một số loại men vi sinh khác theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
Quy trình ủ chua thân cây ngô sinh khối
Bước 1: Cây ngô sau khi bẻ bắp thu hoạch, cắt nhỏ cây 3 – 5 cm, phơi tái dưới nắng khoảng nửa ngày để làm mất nước và héo. Đảm bảo độ ẩm khoảng 65%.
Bước 2: Cho tất cả các nguyên liệu vào túi ủ và tiến hành nén thật chặt. Nếu sử dụng hố ủ, cần rải một lớp rơm hoặc cỏ khô xuống đáy hố, sau đó chất từng lớp thức ăn có độ dầy từ 40 – 60 cm. Sau mỗi lớp thức ăn cần nén chặt và đều. Hố ủ nên làm nơi khô ráo, thoát nước; nếu mục đích sử dụng lâu dài thì thay vì đào hố vạn có thể xây dựng hố ủ bằng gạch và xi măng.
Bước 3: Phối trộn ure hoặc rỉ mật theo tỉ lệ dung tích 10 lít, lấy 5 lít rỉ mật (hoặc urê) hòa vào 5 lít nước sạch, tưới đều cho mỗi lớp ngô đã chất vào trong hố ủ trước khi nén. Cần định liệu rỉ mật đều cho tất cả các lớp thức ăn trong hố ủ theo tỷ lệ nêu trong bảng trên (hoặc bạn cũng có thể rải một lớp ngô bột lên trên thân cây để tăng tốc độ chua).
Bước 4: Kỹ thuật đóng hố ủ cũng thay đổi tùy theo từng loại hố. Trường hợp hố ủ lớn, có hai vách ngăn song song, sau khi đã nén kỹ lớp thức ăn trên cùng, phủ một lớp rơm (độ dày 5 cm) lên đỉnh hố, sau đó đổ một lớp đất dày (30 cm) lên trên và bao phủ toàn bộ bề mặt hố ủ. Cần che hố ủ bằng bạt, bằng tôn hoặc tấm lợp. Sau khi ủ được từ 6 đến 7 tuần là bạn có thể mang thân cây đã ủ cho vật nuôi ăn được.
Nguồn: khuyennongvn.gov.vn
Xem thêm: Cách chăm sóc chôm chôm không bị khô lá khi bị ngập mặn